Do sự hội tụ nhiều yếu tố tự nhiên như sự giao lưu ảnh hưởng từ văn hóa Trung Hoa, Triều Tiên và phương Tây, đam mê nghệ thuật cùng với nền ẩm thực truyền thống, gốm Nhật đã phát triển vượt bậc và có thể xem là tốt nhất thế giới. Hãy cùng Gốm Sứ Nhật Bản tìm hiểu lịch sử hình thành và phát triển gốm Nhật Bản nhé.
Cuối thế kỷ 16, một nhà lãnh đạo quân sự nổi tiếng của Nhật tên là Toyotomi Hideyoshi đã bắt cóc những người thợ gốm Triều Tiên và mang họ về Nhật. Những thợ gốm Triều Tiên này được đưa tới các thái ấp để đào tạo những thợ gốm người Nhật Bản. Những món đồ gốm nhỏTriều Tiên, đặc biệt là vật dụng dùng trong sinh hoạt hằng ngày rất được ưa chuộng. Người Nhật minh họa nó là “wabi sabi – vẻ đẹp hoang sơ đơn giản”.
Hideyoshi là bậc thầy về quân sự nhưng trong nghệ thuật trà ông chỉ là một học trò. Bậc thầy về trà đạo là ông Sen-no Rikyu, người phát minh ra trà wabi, đã đặt làm những bát trà với kỹ thuật nhẹ lửa không tráng men gọi là wabi sabi. Những bát trà này do một bậc thầy về gốm Triều Tiên làm ra tên là Chojiro. Chính sự xuất hiện của sản phẩm gốm này đã làm nên điểm nhấn rực rỡ và hoàn hảo trên “con đường phát triển của đồ gốm dùng để uống trà”. Qua nhiều thế kỷ, gốm đã trở thành một phần không thể thiếu trong nghệ thuật trà đạo.
Sen-no Riyku cho rằng nghệ thuật uống trà nên được phổ biến đến toàn dân chúng Nhật. Tầm ảnh hưởng của ông lúc bấy giờ vượt xa Hideyoshi. Bởi sự phổ biến và nét văn hóa đó, những tư tưởng của ông đã tác động đến đời sống thẩm mỹ, định hình tới nghệ thuật Nhật Bản ngày nay.
Trong phong trào sáng tạo, đổi mới mạnh mẽ. Một bậc thầy về gốm và nghệ thuật trà đạo là ông Furuta Oribe đã táo bạo vẽ tự do nhiều họa tiết màu nâu và tráng lớp men xanh mờ lên gốm, việc này đã đặt nền móng cho sự phổ biến phong cách Oribe cho đến tận thời nay. Đây cũng là bước đánh dấu sự quay trở lại của dòng gốm Nhật, thời kỳ gốm Nhật được ưa chuộng hơn gốm nhập khẩu.
Cuối thế kỷ 17, đánh dấu sự phục hưng thẩm mỹ Nhật Bản và mỹ thuật Nhật Bản. Một thợ gốm được sùng kính là Ogata Kenzan chuyển xưởng gốm từ Narutaki đến vùng trung tâm Kyoto và phát triển thịnh vượng tại đây. Lấy cảm hứng từ những bức tranh của anh trai – Ogata Korin, nghệ sĩ Rimpa nổi tiếng, ông đã làm nên những sản phẩm gốm như một bức tranh hoàn chỉnh và nó sống động hơn khi thức ăn được bày biện một cách khéo léo lên trên.
Đến thời Minh Trị (1868 – 1918), cùng với việc mở cửa giao thương với phương Tây và gốm Nhật lúc đó làm bằng tay, thô sơ, không hoàn hảo đã trở nên yếu thế. Đồng thời, gốm sứ Trung Hoa cũng bắt đầu được du nhập vào Nhật. Trong khi đó, nhiều nghệ nhân gốm Nhật từ bỏ công việc và chuyển sang trồng trọt, chăn nuôi do khó kiếm sống bằng nghề gốm. Nghề gốm Nhật truyền thống có nguy cơ biến mất.
Vào những năm 1920, một nhà sưu tập gốm dân gian và nghệ thuật gốm Nhật Bản là Yanagi Soetsu, đã cố gắng đảo ngược phong trào nghệ thuật và thủ công mỹ nghệ Anh qua các tác phẩm của William Morris. Cùng với những thợ gốm bậc thầy là Kawai Kanjiro và Hamada Shoji, ông đã hình thành phong trào Mingei (thuật ngữ này do Soetsu phát minh ra) – có nghĩa là “nghệ thuật của nhân dân”. Ngày nay cuốn sách “Nghệ nhân vô danh” – The Unknown Craftsman của ông vẫn là một tác phẩm kinh điển, nơi ghi lại những kỷ niệm khiêm tốn, nghề làm gốm dân gian vô danh cùng những tư tưởng lớn.
Vào thời kỳ Đại chính (1912-1926), dưới sự trị vì của Nhật hoàng Taisho, phong trào Mingei giúp người Nhật quan tâm trở lại về nghệ gốm truyền thống Nhật Bản, nhờ đó gốm Nhật Bản được phục hồi và dòng gốm dân gian được giới tri thức đánh giá cao.
Ngành công nghiệp gốm sứ Nhật Bản ngày nay đã có một phát triển vững mạnh. Ngoài những thợ gốm từ những dòng họ danh tiếng, những thợ gốm trẻ cũng có thể tách ra làm việc độc lập, họ tự điều hành và phát triển bằng sáng tạo và tài năng của riêng mình.
Ngân Mai (Theo Bảo tàng Lịch sử quốc gia)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét